Theo dõi Báo Tây Ninh trên
(BTN) - Người làm báo là để làm cách mạng, nhưng bằng sự say mê, nhiệt thành của một trái tim cộng sản cộng với tài năng thiên bẩm và bề dày văn hoá, Hồ Chí Minh đã trở thành một nhà báo tầm vóc quốc tế, người thầy mẫu mực của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại kho tàng đồ sộ với hơn 2.000 bài báo. Ảnh tư liệu
Theo nhận định rộng rãi, di sản báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại là một bộ phận hữu cơ quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng cách mạng của Người. Người làm báo là để làm cách mạng, nhưng bằng sự say mê, nhiệt thành của một trái tim cộng sản cộng với tài năng thiên bẩm và bề dày văn hoá, Hồ Chí Minh đã trở thành một nhà báo tầm vóc quốc tế, người thầy mẫu mực của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh trước sau như một nhất quán quan điểm, báo chí phải luôn “theo chính trừ tà”
Người đặt nền móng cho báo chí cách mạng
Chủ tịch Hồ chí Minh coi báo chí và những người làm báo là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, báo chí là vũ khí sắc bén trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân. Người làm báo là làm cách mạng và để làm cách mạng. Người cho rằng, hoạt động báo chí thực chất là hoạt động chính trị, báo chí là vũ khí đấu tranh cách mạng nên báo chí cách mạng trước tiên phải mang tính chiến đấu, tính định hướng và tính quần chúng nhằm tuyên truyền cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng vì mục tiêu kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Tháng 9.1962, nói chuyện ở Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang viết là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng”. Trong tư cách là một nhà báo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự trau dồi đạo đức, phong cách của người chiến sĩ trên mặt trận báo chí và chính Người đã đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của báo chí cách mạng nước ta. Vấn đề hàng đầu Người đòi hỏi các nhà báo là phải có phẩm chất chính trị vững vàng và theo đó phải có đạo đức tốt đẹp và trong sáng. Ngày 25.5.1947, trong thư gửi anh em văn hoá và trí thức Nam bộ, Người viết: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà”.
Chúng ta biết rằng, “Bản án chế độ thực dân Pháp” thực chất là một tác phẩm được viết dưới hình thức báo chí, tác phẩm này có sự kết hợp giữa thể loại chính luận với điều tra báo chí. Những ai đã học, đọc hoặc tìm hiểu về tác phẩm này, nếu không có điều kiện đọc toàn bộ thì chỉ cần đọc Chương 1 cũng thấy được, đây là một tác phẩm chính luận, báo chí mẫu mực. Tác phẩm này cũng có thể coi như một phóng sự điều tra mẫu mực, vào thời điểm cách nay cả trăm năm. Trong tác phẩm này, để cực lực lên án chế độ thực dân, tác giả không chỉ biểu cảm một cách tuần tuý, phải có chứng cứ, có lập luận, có luận điểm hẳn hoi, đủ sức thuyết phục bạn đọc. Xin trích dẫn một đoạn:
“… Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô lẫn người “an-nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”. Để ghi nhớ công lao của người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỷ niệm đủ thứ, v.v… trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn, xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” đó sao? Thế là những cựu binh, đúng hơn, là những cái xác còn lại sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lý nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lý cả. Theo báo chí Đông Dương thì thương binh người Pháp mất một phần thân thể và vợ con của tử sĩ người Pháp đều được cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện. Như thế là trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại. Một mặt, họ vẫn chưa thoả khi tự tay làm cái việc bỉ ổi của người đầu độc mà họ muốn lôi kéo vào đây cả những nạn nhân đáng thương hại của cuộc huynh đệ tương tàn nữa. Mặt khác, họ coi rẻ tính mạng và xương máu của những kẻ đã bị lừa bịp, đến nỗi tưởng rằng chỉ cần quẳng cho họ những người này người khác khúc xương thối ấy là đủ để đền bù được một cánh tay bị mất hoặc mạng của một người chồng. Chúng tôi chắc chắn rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin rằng, thế giới văn minh và người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi”.
Tinh thần của đoạn văn trên lên án chế độ thực dân pháp “vắt chanh bỏ vỏ” đối với những người lính da vàng, da đen bị bắt sang nước Pháp để làm bia đỡ đạn trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Những người lính không may thiệt mạng thì đã rồi, còn những người lính của xứ thuộc địa còn sống sót sau chiến tranh đã bị nhà cầm quyền thẳng tay phủi trách nhiệm. Không chỉ vậy, những người lính này còn bị đối xử như hủi vì trong mắt nhà cầm quyền thực dân, họ là “những người bẩn thỉu”. Ngoài nội dung tư tưởng, đoạn văn trích dẫn nêu trên cho thấy, tác giả không viết theo lối văn chương thuần tuý, thay vào là văn phong, ngôn ngữ báo chí. Đặt trong bối cảnh 100 năm trước, đoạn văn trích dẫn nêu trên thực chất là một tác phẩm báo chí với lối hành văn hiện đại.
Nhà báo Hữu Thọ từng nói về nghề báo: “Làm cái nghề này phải mắt sáng, lòng trong, bút sắc thì mới nên nghề” (Trong ảnh, nhà báo Hữu Thọ phát biểu trong lần nói chuyện với PV, BTV Báo Tây Ninh ngày 20.4.2011). Ảnh: Đ.H.T
Đừng ngộ nhận
Không phải tự nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước sau như một luôn coi văn nghệ, báo chí là một mặt trận. Ngoài những chức năng mặc nhiên, ai cũng biết, các loại hình nghệ thuật nói chung, báo chí nói riêng, đúng là một mặt trận. Đã là mặt trận thì phải có người lính. Người lính ở đây có thể không cầm súng, vũ khí của họ là cây bút và trang giấy. Cây bút, trang giấy có trở thành vũ khí sắc bén để “đập tan các luận điệu xuyên tạc và thù địch” hay không, điều đó phụ thuộc vào trình độ, ý thức trách nhiệm của những người làm báo.
Một thời gian dài, có nhiều ý kiến cả trong và ngoài nước luôn nói rằng, chỉ có báo chí cách mạng mới đặt nặng tính tuyên truyền, còn báo chí phương Tây chỉ thuần tuý thông tin. Đây thực ra là một ngộ nhận. Báo chí phương Tây, kể cả Mỹ, xứ sở được coi là tự do báo chí hàng đầu thế giới, những người làm báo ở đây, qua bài viết, họ vẫn thực hiện nghệ thuật tuyên truyền. Vấn đề ở chỗ, nghệ thuật tuyên truyền như thế nào và tuyên truyền cho ai.
Nhà báo Hữu Thọ, người từng làm Tổng biên tập Báo Nhân Dân và cao hơn nữa, đứng đầu cơ quan phụ trách báo chí, tư tưởng của Đảng đã có lần phát biểu về nghề báo rằng, một bài báo, nếu viết xong ai đọc cũng hài lòng thì đó là một bài báo thất bại. Ông còn nhấn mạnh vai trò của nhà báo, đại ý, nhà báo cũng là công dân, vì thế, không phải tất cả, nhưng tuỳ vào từng bài báo cụ thể, người dân mong chờ có tiếng nói của nhà báo trong tác phẩm. Ý ông muốn nói, là nhà báo, anh phải nói lên tiếng nói của mình chứ không chỉ cầm cái máy ghi âm ghi lại lời ông bà đó nói thế này thế nọ rồi về chép lại là xong. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý đội ngũ những người làm báo rằng, đưa tin, viết bài phải cân nhắc, riêng bài viết cần có tính định hướng chứ không phải quăng lên đó ai hiểu sao thì hiểu.
Việt Đông
(Còn tiếp)